Tôi đứng về phe nước mắt...

Thứ Hai

HỌ LUÔN NHÌN TÔI


Bà Doãn Ngọc Trâm, mẹ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm kể lại những câu chuyện về con gái


Hàng năm, cứ đến dịp 30-4 tôi như bị đánh thức bởi một chặng đường mình đi, những thân phận mình gặp. Đâu đó là những câu chuyện kể, những giọt nước mắt của nhân vật, những tâm sự rất riêng nhưng đều có mẫu số chung: Họ, những con người trở về từ chiến tranh, với những cuộc đời không phẳng lặng, mãi mãi là những người bạn đồng hành cùng tôi suốt cuộc đời cầm bút. Tôi đã viết về họ suốt 6 năm ròng, khi còn là một phóng viên chập chững với những bước đi đầu tiên trong nghề.

1.“Có phải Vũ không? Mệ Thịnh nì”-giọng Quảng Bình trọ troẹ. “Mệ Thịnh trong bài báo Hoa cải vẫn nở vàng trên bến sông của con đó. Con khoẻ không? Mệ gọi báo tin cho con, mệ tìm được chú rùi nì”.

Tôi ngạc nhiên đến lặng người. Một bài báo đã được đăng cách đây gần 10 năm. Hồi đó, tôi đến huyện Quảng Trạch, Quảng Bình công tác với mục đích là tìm lại những người mẹ nuôi quân bên dòng sông Gianh lịch sử. Lang thang trên cầu sông Gianh chợt một người dân cho tôi biết, ở Quảng Trạch vẫn còn nhiều cô gái một thời dâng hiến tuổi thanh xuân cho bom đạn, khi hoà bình đã quá lứa lỡ thì. Tôi đã gặp ba chị (mà theo tuổi tác tôi phải gọi họ bằng các bác, các mệ mới đúng) và được nghe về họ để viết nên bài ký ấy. Một thời đạn lửa khốc liệt được các chị kể lại từ những vết thương. Và tuổi trẻ cũng được kể lại bằng những tình yêu trên chiến trận, vội vàng và đẹp như chính những cái chết vậy. Ám ảnh nhất vẫn là chị Võ Thị Thịnh.

Sẽ chỉ là một câu chuyện thông thường nếu chỉ là một cô TNXP ở bến phà Long Đại đêm đêm với những nhát cuốc san đường cho những đoàn xe kịp ra trận. Điều ám ảnh ở chị, người đàn bà đến giờ vẫn mang hai mảnh đạn trong phổi, ba mảnh đạn trong đầu, chấn thương sọ não, thương tật đến 81%-lại chính là hình bóng người thanh niên cùng đơn vị quê Nghệ An. Năm 1968, họ cùng nhau sống và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, khúc phà Long Đại của tỉnh Quảng Bình. Năm 1969, anh đi B dài. Thời gian đầu vẫn thư đi thư lại, nhưng đến năm 1971 thì họ mất liên lạc. Ngày chiến thắng, có người nói với chị anh đã hy sinh, có người lại nói, vẫn nhìn thấy anh về rửa chân và hỏi về chị ở bến phà Lòng Đại.

Chị thì vẫn chờ. Chờ cho đến hết tuổi xuân, đến khi tóc trên đầu hai thứ mà anh vẫn không trở lại. Có lần, cầm dòng địa chỉ trên tay, chị tính về Nghệ An tìm anh nhưng lại nghĩ: “nếu anh có gia đình yên ấm thì mình không nên xuất hiện nữa. Còn nếu anh đã hy sinh thì mình về cũng chỉ khổ thêm cho những người thân của anh” nên đành thôi không tìm nữa. Bài báo tôi viết vào năm 2000, đến năm 2004 tôi chọn vào tập ký “Có tuổi hai mươi thành sóng nước”. Cuốn sách đó có mặt ở hầu hết các cơ sở Đoàn vì được đưa vào tủ sách Tiếp lửa truyền thống. Mãi đến năm 2007, một cậu công tác ở đoàn thanh niên ở huyện Đô Lương (Nghệ An) đưa về đọc cho cha cậu nghe. Người đàn ông rơm rớm mắt rồi lặng lẽ ghi lại dòng địa chỉ. Đến đầu năm 2009, ông cùng người con vào Quảng Bình tìm lại cô gái một thời…

“Con biết không, vợ ông bị ung thư chết. Ông chờ khi mô đứa con út lập gia đình ông mới nghĩ đến việc về thăm lại chiến trường. Ngày gặp, mệ có nhận ra chi nữa mô, may ra thì chỉ có đôi mắt. Đôi mắt răng mà lạ, không chịu già đi mới lạ”-chị Thịnh nói. Nhưng cũng chỉ là gặp thôi, dù chị Thịnh vẫn một đời chờ đợi nhưng số phận nhiều lúc trớ trêu hơn người ta tưởng. Chị cũng ra thăm anh một lần, các con anh mong muốn chị sẽ ở lại “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, nhưng giờ đây chị không thể bỏ người mẹ già hơn 90 tuổi ở Quảng Bình để đi theo tiếng gọi tình yêu được nữa.

2.Khi còn làm phóng viên ở đất Bắc, thỉnh thoảng đi công tác tôi cũng có ghé thăm các nhân vật của tôi. Phải đau lòng mà nói, dù có viết lên thì số phận họ cũng vậy, không thay đổi được bao nhiêu. May chăng là những người đã hy sinh, mình góp một tiếng nói, địa phương mới xúc tiến làm hồ sơ để xét truy tặng cho họ danh hiệu, có thể là liệt sĩ, có thể là anh hùng... Hơn 150 nhân vật mà tôi gặp, hầu hết cho đến hôm nay, hai chữ thân phận vẫn còn công kênh so với những xương máu họ đã đổ cho những người cùng thời lẫn hậu thế để có được những no ấm hôm nay…

Trong một bài phỏng vấn ông Nguyễn Đình Liêu, khi ông còn là Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tôi đã không ngần ngại chia sẻ những “người thật việc thật” mà tôi đã thấy suốt chặng hành trình 6 năm kia. Ông Liêu rơm rớm: “Chúng ta đã muộn. Họ đã qua tuổi trẻ, có người về đất, có người thương tật. Con họ cũng đã lớn, nghèo khổ thất học cũng đã rồi. Sự báo đáp bao năm qua, cũng là một phần quá nhỏ so với những gì họ phải chịu đựng, chứ chưa nói đến là họ đã hy sinh xương máu”. Bạn đọc báo Quân đội nhân dân rất thích những tâm sự của Thứ trưởng Nguyễn Đình Liêu, bởi đó là điều rất thật và đúng, khi bài phỏng vấn của tôi in lên.

Ừ, thì hơn 150 nhân vật. Tôi muốn dựng nên một bức tranh hùng, muốn kế tiếp những cha chú đi trước đã vào tận chiến trường viết về họ dưới đạn pháo và chết chóc. Tôi tìm họ khi tiếng súng đã im, xem cuộc sống của họ ra sao. Nhiều người cho rằng một phóng viên trẻ sao không xông xáo đi theo mảng thời sự, xã hội mà suốt ngày hồi cố về những điều đã qua như vậy, tôi cũng chỉ cười qua chuyện rằng đó là điều tôi thích. Sẽ ít ai tưởng tượng được cái cảm giác đứng ngược gió trên tượng đài chiến thắng Thành cổ, gió thổi khói hương vào mắt. Hay là cùng các chú thả hoa viếng đồng đội trên sông Thạch Hãn. Hay cùng các bạn trẻ ôm đàn hát giữa nghĩa trang Trường Sơn. Hay cùng đi tìm hài cốt liệt sĩ giữa những trận mưa rừng. Nước mắt chan mưa. Quá khứ ngập hiện tại. Sự im lặng phủ quá khứ oai hùng. Tất cả, tất cả vẫn còn như thể là chiến tranh chưa hết trong mắt người ở lại.

Đa số những nhân vật của tôi đều là những thân phận thiệt thòi. Đó là chị Trần Thị Thông, người con gái còn sống sót sau một trận mưa bom ở Truông Bồn-Nghệ An, xoá sổ gần hết tiểu đội của chị. Mang thương tật, mất hết giấy tờ, đến cả chế độ thương binh cũng không được. Khi tái diễn lại quá khứ Truông Bồn, chị phát hoảng khi có ai đó tự lên nhận là người sống sót duy nhất trong khi nhân chứng Trần Thị Thông vẫn còn đó. Giờ phần nào cuộc sống của chị được cải thiện, cách đây ít hôm anh chị có gọi điện cho tôi mời tôi vì cưới đứa con trai út.

Đó còn là anh Lê Xuân Chinh, nhân vật trong bức ảnh Nụ cười dưới chân Thành cổ, cũng mất hết giấy tờ và chịu đựng cuộc sống bệnh tật như một gánh nặng cho vợ con ở Điện Biên. Đọc bài tôi viết về anh, một công ty nọ cũng nhận đỡ đầu cho con anh và nhận anh vào làm việc. Đó còn là một người cha hơn 30 năm đi tìm thi hài con dưới chân Thành Cổ, và đến giờ vẫn hy vọng tìm kiếm dù ông biết ông không còn sống được bao ngày nữa…Đó cũng có thể là những mối tình hiền Lương một thuở ngăn cách còn son sắt thuỷ chung cho đến bây giờ. Cũng có thể là những người thanh niên sống bên kia chiến tuyến, đã không tiếc tuổi trẻ, gác bút xuống đường tranh đấu…Họ là những con người “sống là cho” đúng nghĩa. Cho mà không đòi hỏi cái sự nhận. Cho để người khác nhận.

3.Khi viết về họ, tôi là một phóng viên tập sự ở báo Quân đội nhân dân, với mảnh giấy giới thiệu chu du gần hết mảnh đất hình chữ S này, đặc biệt là những nơi từng là đất lửa dữ dội một thời. Có khi cả tháng trời tôi nằm ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), Quảng Trạch (Quảng Bình), Thăng Bình (Quảng Nam), Can Lộc (Hà Tĩnh), Huế…Viết, gom nhuận bút một đợt tôi lại tiếp tục lên đường. Nhiều cán địa phương thấy tôi là lạ, cho ở nhờ và giới thiệu những nhân vật để tôi viết. Cũng có nơi thấy tờ giấy giới thiệu phóng viên tập sự, thì chối ngay từ đầu. Nhưng dù có thế nào, tôi cũng đã làm được điều mà tôi hứa với cha tôi: “Con sẽ là một phóng viên viết về hậu chiến”.

Sau một thời gian kiên trì với những thân phận, tôi chính thức vào quân ngũ, thành một phóng viên mặc áo lính- là một sỹ quan quân đội. 6 năm với từng đó nhân vật, nghĩ mình nên “rời sân cỏ” để chuyển sang viết các vấn đề xã hội. Khi tôi rời mảng hậu chiến cũng là lúc tôi rời quân ngũ để chuyển sang một tờ báo mới. Và chạy theo những đòi hỏi của một phóng viên chuyên nghiệp cho đến bây giờ.

Trải qua một hành trình làm báo: từ phóng viên chuyên viết về hậu chiến, thành một phóng viên xã hội nói chung, rồi đến phóng viên chuyên chạy tin tức thời sự, tôi thấy mình được rất nhiều từ những tháng ngày lăn lộn hết nơi này sang nơi nọ để tìm những mảnh đời sau khi chiến tranh đi qua. Đó là những tháng ngày đẹp nhất của một chặng hành trình nghề nghiệp, mà có lẽ khi đã đi qua rồi tôi luôn lấy để răn mình giữ cái tâm trong cuộc đời làm báo. Những nhân vật đã ở lại trong trang viết và đã vô hình dạy cho tôi cái lẽ cho và nhận giữa cuộc đời, giữ sự chân thành và trong sạch của một người cầm bút. Có những lúc nào đó, khi sự cám dỗ đang đến gần, các nhân vật như hiện ra và nhìn tôi. Chỉ cần chừng đó thôi, cũng đủ để tôi thấy mình nên và không nên làm gì…

Tôi muốn trích lại đoạn kết trong bài ký Sông Gianh và mẹ, cho bài viết này: “Hôm ấy, ông Hiếu gàn cùng tôi đi dạo trên cầu sông Gianh. Sông yên ả quá. Chiếc cầu mới thênh thang quá. Ông Hiếu nhìn xa, nơi những con sóng đổ dồn nhau ra biển và ông nhận về mình một nỗi buồn từ quá khứ vọng lại. Tôi hiểu nối buồn ấy, nỗi buồn của những người đọc những câu chuyện với những kết thúc chưa có hậu. Biết làm sao được, các thế hệ đã cùng nhau viết nên những câu chuyện và thế hệ sau lại viết tiếp. Nhưng vấn đề là viết tiếp như thế nào để tiếng cười nhiều hơn nước mắt, hạnh phúc nhiều hơn nỗi đau”…

Bài đăng trên tạp chí Nghề báo, số tháng 4-2009

Không có nhận xét nào: